Kính hương hồn cậu ruột tôi. Thi sĩ PHAN TRƯỚC VIÊN
Di ảnh Thi sĩ PHAN TRƯỚC VIÊN
Phan Trước Viên – Tên thật là Nguyễn Công Chinh - Liệt sĩ, là nhà thơ của dân tộc, của Quảng Nam. Ông sinh ra và lớn lên tại Bình Tú, Thăng Bình, Quảng Nam. Phan Trước Viên còn có một người em ruột Nguyễn Công Chiến từng là Chủ tịch Hội học sinh ,sinh viên tranh đấu trường Trần Cao Vân – Tam Kỳ trong những năm kháng chiến ác liệt 1965 -1967 và đã hy sinh anh dũng lúc ấy.
Thi sĩ Phan trước Viên là người đã chấp bút lời hiệu triệu cho Ban binh vận Miền trung, trung bộ được đọc và phát trên Đài phát thanh Đà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân – 1968.
Chiến tranh đã đi qua được 38 năm, một khoảng thời gian đủ dài để mọi sự trở nên bình thường, nổi đau và mất mát nào rồi con người cũng đã nguôi ngoai, chấp nhận. Nỗi buồn chiến tranh?. Bây giờ ta chỉ còn nhìn bằng những trải nghiệm cuộc sống chứ không tái hiện lại chiều kích đau thương để lại sau cuộc chiến. Đó là ta phục dựng lại hình ảnh của những con người không trực tiếp cầm súng, nhưng bằng ngòi bút, bằng sự chịu đựng và sức mạnh anh hùng đã thực sự làm nên thành công cho cuộc kháng chiến. Người đã truyền đi những khát vọng hòa bình của cả một dân tộc Việt Nam.
Và trong bài viết ngắn này, tôi không thể phân tích chi tiết nghệ thuật làm thơ, 150 bài thơ của PHAN TRƯỚC VIÊN để lại. Mà đây tôi chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ cuộc đời và sự nghiệp - "Phan Trước Viên ngày ấy" – Một nhà thơ đích thực, người chiến sĩ cách mạng, người con của đất Quảng đã mang trong người tình yêu chân thực đối với quê hương trong nổi uất ức phải phản đối, chống lại chiến tranh cùng cả toàn dân.
Thi sĩ Phan Trước Viên bắt đầu làm thơ từ rất sớm, năm lên mười, dù câu chữ chưa được gọt giũa, nhưng ông đã viết được những vần thơ hay về Bác Hồ - Nhân ngày sinh nhật 19-5 :
“Trán Bác rộng một trời cao mãi mãi,
Da Bác nhăn vì dân tộc lầm than.
Màu da ấy, màu pha trời đất
Màu quê hương chồng chất từ lâu”
(Mừng 19-5 Sinh nhật Bác)
Đến khi PHAN TRƯỚC VIÊN trưởng thành cũng là lúc phong trào văn nghệ sinh viên học sinh toàn Miền Nam tranh đấu vì hòa bình, dân chủ, độc lập và thống nhất Tổ quốc trải rộng trên khắp nơi. Lúc ấy, Phan Trước Viên gần như là người có mặt thường xuyên trên những trang báo “không chính thống” của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Sinh viên Huế; Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ… Hay tuần san "Vùng lên" của Hội đồng Chỉ đạo Sinh viên Học sinh Sài Gòn (1964)
Thời bấy giờ, tuy tất cả những trang báo này in bằng bản roneo nhưng rất nổi tiếng và được nhiều người đọc hơn cả “Báo chính thống” công khai, được kiểm duyệt như Bách khoa, Văn, Văn học, Nghệ thuật, Văn nghệ Tiền phong . Và những chủ bút Tân Dân, Phổ thông, Bách Khoa đã không ngần ngại gọi thơ Phan Trước Viên – là một “hiện tượng lạ” ở miền Nam với những bài thơ phản chiến và đanh thép. Trong cuộc kháng chiến của toàn dân, Phan Trước Viên cũng như những nhà thơ, nhạc sĩ khác đã đóng góp phần không nhỏ văn chương và nhạc cho cuộc chiến. Hơn nữa điều đó đã tạo được một giao diện phong phú cho thơ ca trong phong trào đấu tranh tại các đô thị miền Nam trước 1975, nhằm đòi hòa bình, thống nhất đất nước.
Người ta thường nói rằng “sự dũng cảm của thi nhân là trung thực với những cảm xúc của chính mình”. Cũng như thế, Phan Trước Viên đã viết theo lẽ tự nhiên tuân theo cảm xúc chân thật của mình:
“Quê hương ơi!
Ngày mai thù tan xác
Mai tôi về đất tổ bình yên
Những bạn tôi xả thân ngoài trận mạc
Đời ghi công và sử sách đề tên”
(Lời nguyền)
Phan Trước Viên - Một chiến sĩ cách mạng rất giàu cảm xúc với tình yêu quê hương, trong thơ, ông thường mô tả một hiện thực cảnh bi đát và điêu tàn đích thực của làng mạc Việt Nam trong chiến tranh. Đọc thơ Phan Trước Viên ta cũng rất dễ tìm ra trong thơ luôn có nội dung tư tưởng sâu sắc và thể hiện ngôn từ phong phú, thấm thía như chạm vào những khoảng lặng của tâm hồn:
“Những lau sậy cúi đầu trong giông tố
Những cành rau run rẩy dưới mưa rào
Càng chống đỡ chúng càng thêm đau khổ
Đành âm thầm chịu đựng với trời cao”
(Lau sậy)
Với tình yêu quê hương của mình, thời ấy, bài thơ “Hai mươi” của Phan Trước Viên đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ toàn Miền Nam năm 1964. Một Giải thuởng VĂN HỌC lớn thời ấy đã cho ta một góc nhìn độc đáo, khác lạ của con người trong thời chiến tranh, đó là họ rất thực trong thái độ nhìn nhận và ứng xử trớ trêu. Cũng xin nói một điều rằng, tuy đạt Giải nhất cuộc thi nhưng đây không phải một bài thơ toàn bích mà đó là một bài vừa phản chiến, vừa “mô tả” hình ảnh con người bình thường trong chiến tranh qua từng góc độ và khía cạnh. Bài thơ có đoạn:
“Anh ơi!
Quê hương mình xương chất Hận sông Gianh
Buồn Bến Hải ngàn năm thời hiện tại
Anh ở đâu?
Sao nụ cười hoang dại?
Tôi là tôi ngàn năm mãi vẫn cười
Say chếnh choáng mong địa cầu tan vỡ”
(Tuổi hai mươi)
Đến năm 1966, Phan Trước Viên và nhiều đồng đội của mình bị địch bắt và đưa ra xét xử trước Tòa án Quân sự Đà Nẵng, nhưng được trắng án vì không có cơ sở buộc tội, cũng như gặp sự phản đối quyết liệt của sinh viên học sinh cùng các lực lượng tiến bộ ở Đà nẵng và miền Nam. Cũng trong thời gian này Phan Trước Viên đã viết:
“Đến nay có những người nằm trong tù ngục
Nhớ quê hương vời vợi muôn trùng
Những người đi mang nợ núi sông
Chân chưa mỏi nhưng phải dừng trong tù ngục”
(Quảng Đà quê ta ơi !)
Năm 1967 sau khi ra tù, thi sĩ Phan Trước Viên về tiếp tục hoạt động cách mạng bí mật trong tổ chức F210 của Ban binh vận Miền trung trung bộ và bị bắt đi quân dịch tại Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 đóng tại Tuân Dưỡng – Quảng Nam. Trong thời gian tại đây nhà thơ đã viết:
“Tôi là tôi đầu Ngô , mình Sở
Phận con người viết mướn làm thuê
Yêu văn chương
Yêu sự thật của nghề nước mồ hôi tận tụy”
Hay
“Ta đã từng yêu từng sống
Từng lao tù đày đọa tháng năm
Từng đau thương, từng đọc sử ngàn năm
Cần đạp đổ thành trì nô lệ”
(Tuổi hai mươi)
Việc trong lòng địch và làm thơ phản chiến đăng trên báo chí đã nói trên, cho thấy Phan Trước Viên đã vượt được qua “cánh cửa sắt” bằng một tư tưởng nhất quán, bằng một cây kim chỉ nam mà nhà thơ đã lấy làm định hướng xuyên suốt hành trình nghệ thuật của mình. Phan Trước Viên không chỉ bày tỏ thái độ không tán thành chiến tranh, mà chống lại chiến tranh bằng sự đồng cảm, chia sẻ với những con người đang phải gánh chịu những đau thương mất mát trong chiến tranh:
“Anh về quê hương chiều cuối hạ
Bãi vàng trắng chết trên sông
Con đò rách ven hàng dừa rũ lá
Không một người qua nước bạc dòng”
(Quê nhà)
Tôi không phải là một người cùng thời với Phan Trước Viên, khi nhà thơ đi xa...., tôi chỉ mới vừa tròn một tuổi. Nhưng sau khi đọc những bài thơ Phan Trước Viên để lại, tôi mới hiểu rằng ông làm thơ thật phong phú thể loại. Mỗi bài thơ là một tình yêu quê hương, là nổi đau trong chiến tranh mất mát, là đời người cứ mong manh như một kiếp ve sầu:
“Ta nhặt về đây những xác tàn
Ve sầu chết giữa buổi thu sang
Ai chôn một kiếp đời ngắn ngủi ?
Ai lượm dùm ta chiếc lá vàng?”
(Thu)
Và lần nữa, nhìn lại chiến tranh, ta có thể khẳng định sức sống, sức chiến đấu không thể phủ nhận của những con người làm nghệ thuật thời ấy. Phan Trước Viên đã dùng tài năng của mình để nói lên điều mà con tim muốn nói:
“Ta kiêu hãnh chưa bao giờ khuất phục
Dù những lần không tấc sắt trong tay
Cũng có lúc gió mưa vùi sóng dập
Cũng nhiều phen cam ngậm đắng nuốt cay”
(Tiếng hát muôn đời)
Đọc thơ Phan Trước Viên ta như sống lại một hiện thực lịch sử của những nhà thơ, nhà văn , nhà viết nhạc đã sống và chiến đấu ngay trong lòng địch. Họ đã bám trụ kiên cường, “đánh giặc” bằng những vần thơ thép, dẫu đó chỉ là bộc phát chưa có ai chỉ đạo "đường lối" văn học nghệ thuật. Thơ của họ có khi đó là những bài thơ với ngôn ngữ chân thật bằng sự chứng kiến trần trụi, khắc nghiệt của sự thật để cho mọi người hiểu được cái phi nghĩa, cũng như chính nghĩa của cuộc chiến và những bên tham chiến. Những ai từng đọc những vần thơ phản chiến từ những năm 1960-1975 đều thấy được, người làm thơ đã đau với nỗi đau chung của dân tộc, họ thao thức trăn trở, rung cảm đến tận đáy lòng bằng vần thơ.
Nhưng buồn thay, Phan Trước Viên - Số phận cũng như những người con của Miền Trung: Ngô Kha, Chu Cẩm Phong, Trần Quang Long, ông đã hy sinh khi tuổi đời tròn 27. Một độ tuổi sung sức nhất của một đời thơ, cũng như đời người còn tràn đầy niềm tin và biết bao dự định. Nhà thơ mất đi, đã để lại một gia sản hơn 150 bài thơ gồm những bài thơ phản chiền, tình yêu quê hương đất nước, thơ tình yêu lứa đôi.
Phan Trước Viên đã hy sinh, thời gian mới đó, mới đây cũng gần 45 năm. Những đau thương mất mát trong chiến tranh khòi lửa cũng đã bao phủ lớp bụi thời gian, mọi chuyện ngày nay vẫn cứ diễn bình thường cho cuộc sống. Nhưng có một điều sự thật còn đọng lại mà không phải ai cũng có thể hiểu và cũng như đọc được những tập thơ của Phan Trước Viên – một ngôi sao sáng chói trên thi ca Việt Nam trong những năm khói lửa. Đó cũng là điều đáng tiếc nhất đối với Phan Trước Viên cũng như gia đình, người thân của nhà thơ. Theo tôi rất nhiều độc giả gần xa cả nước chưa biết đến Phan Trước Viên cũng vì nhiều nhẽ.
Gia đình của thi sĩ Phan Trước Viên có bốn người đàn ông: Cha, Chú và Em đã anh dũng hy sinh - Liệt sĩ. Sau cuộc chiến, gia tài của thi sĩ còn cũng chỉ là bản thảo của những tập thơ, còn người thân ruột thịt là Mẹ, Chị và con nít (Mẹ của Phan Trước Viên- Bà Lê Thị Ấm là BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG). Khi Phan Trước Viên mất đi, những bản thảo của ông cũng mất nhiều. Tuy Phan Trước Viên vẫn còn nhiều bạn bè thân thiết như: Nhà thơ Nguyên Sa, Tường Linh, Nhà Văn Vũ Hạnh, Nữ văn sĩ Hà Khánh Linh (Nguyễn Khoa Như Ý) v.v.v nhưng không thể phổ biến thơ ông đến nhiều người đọc, bởi nhiều điều trong cái gọi là "chính trị" sau cuộc chiến.
Với hơn 150 bài thơ phản chiến Phan Trước Viên đã sáng tác trong quãng đời ngắn ngủi, nhưng thơ ông cho đến nay chỉ được giới thiệu vài ba bài trên Báo Văn nghệ trẻ của Hội nhà văn Việt Nam, Báo Quảng Nam, Tạp chí Đất Quảng và in chung trong tuyển tập “Tiếng hát những người đi tới” (NXB Trẻ 1995) . Một tác phẩm đồ sộ của "Văn nghệ sĩ Liên khu V" đã được Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, khi còn sinh thời ông đã chấp bút cho đề tựa tuyển tập thơ, văn, nhạc, họa này và ông đã đánh giá đây là “Những bản hùng ca của dân tộc”. Còn trong tạp chí Đất Quảng, nhà thơ Đông Trình từng nhận xét: “Phan Trước Viên là một người anh, là một người thầy của chúng tôi, là một trí thức cách mạng và lãng mạn nên thơ của Phan Trước Viên luôn luôn là sự kết hợp tư tưởng yêu nước và tư tưởng hiện sinh…. “
Trong những năm sau này khi lớn lên, tôi vinh hạnh được gặp lại nữ văn sĩ nổi tiếng Hà Khánh Linh (Tên thật Nguyễn Khoa Như Ý) người yêu, người vợ sắp cưới của thi sĩ. Với Hà Khánh Linh và Phan Trước Viên, đó là một câu chuyện tình yêu đẹp, tình yêu cùng chung lý tưởng, cùng niềm giao cảm. Tình yêu của họ còn là tiếng gọi đàn giữa những tâm hồn đồng điệu, giữa những ngọn lửa nhiệt huyết trong chấp nhận và dấn thân. Họ lãng mạn đến và yêu nhau ngay từ những dòng thơ trao qua gởi lại, còn thêm nữa - Một câu chuyện tình yêu thiêng liêng và cảm động. Nhưng rồi họ mất nhau vì tù đày, vì chiến tranh chia cắt, khi còn sống Phan Trước Viên đã viết:
“Anh sẽ đưa em về
Trên con đường cát bỏng
Làng ta ven chân đê
Lửa tràn qua thôn xóm
Cơn mưa dài lê thê”
hay
“Dỗ dành em ngủ say
Đừng hỏi gì anh nửa
Ta còn đôi bàn tay
Ta còn nguyên khối óc
Là ta còn ngày mai…..”
(Nếu chúng ta còn sống)
Với tình yêu đôi lứa, trong thơ Phan Trước Viên luôn phảng phất hương vị lãng mạn và chia ly. Có thể Phan Trước Viên không có ý hướng làm một bài thơ mang nặng tính nhân bản. Nhưng với đất nước trong cảnh gian nguy, những vần thơ ấy đã thể hiện sự hy sinh vô bờ bến cho cuộc chiến tranh thần thánh mà tình yêu riêng tư luôn đặt nhẹ hơn. Phan Trước Viên đã viết:
“Rồi em đi tôi không cầm lại được.
Hỏi về đâu? Tôi chỉ thấy em buồn
Tôi đưa em đến bên bờ ngõ hẹp
Gió ban chiều rung mái tóc huyền buông”
(Thế rồi ba năm sau)
Do vậy, sau những gì đã lượt qua, chúng ta có thể nhìn nhận rằng Liệt sĩ Phan trước Viên là một thi nhân cách mạng – một thi nhân không ký thác, buông xuôi đời mình trong cuộc chiến và cũng không lãng đãng, phiêu bồng trong cõi nhân sinh mà thật sự trung kiên, bởi vì nhà thơ từng viết trên tạp chí "Phổ thông" thời ấy:
“Mỗi ngọn cỏ xanh, một niềm hy vọng
Trên từng nắm xương liệt sĩ anh hùng
Ta đứng thẳng nhìn mặt trời dậy sóng
Mạch sóng trào theo nước thủy triều dâng”
(Tiếng hát muôn đời)
Kết thúc bài viết ngắn này, nhân kỷ niệm 45 năm ngày mất của nhà thơ, tôi xin được thắp một nén nhang tưởng niệm, đây còn là một sự ngưỡng mộ như của mọi người đối với Phan Trước Viên lúc sinh thời hay nay lúc đã đi xa…. Xin được kính cẩn nghiêng mình trước Phan Trước Viên – một nhà thơ tài hoa xứ Quảng đã lặng lẽ ngã xuống vì độc lập tự do cho Tổ quốc…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét