"Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hoà"
Câu ca ấy man mác như dòng sông Đồng Nai hôm nay!
Câu ca ấy man mác như dòng sông Đồng Nai hôm nay!
Có lẽ tôi có duyên (có nợ) gì đó với vùng đất miền Nam, chứ tôi không có gốc gác gì ở xứ sở này. Đất Biên Hòa, tôi đã sinh sống được trên 15 năm, nên nơi đây là quê hương thứ hai, chỉ còn thiếu một quê nhà. Ngay giữa lòng thành phố này, tôi đã hạnh phúc khi mình có được một khoảng thời gian đủ dài để trải mình với năm tháng tinh khôi và sung mãn nhất của tuổi trẻ, tuổi vừa mới ra đời lập thân. Tôi đã yêu Biên Hòa, đã từng vui buồn và suy tư cùng thành phố. Nhưng thật thậm tệ, vì là người hay viết, sao tôi vẫn chưa có một trang viết nào về thành phố tôi yêu, cũng như viết về vùng đất thoáng đạt của xứ sở sông nước phù sa Nam Kỳ.
Thế hệ trước tôi ở Đồng Nai, nhà văn Hoàng Văn Bổn được xem là cây đa, cây đề của làng văn “Gia Định – Đồng Nai”. Trong các tác phẩm của người đều có nhiều nét hình ảnh đất nước và con người Đồng Nai. Tuy vậy nhà văn Hoàng Văn Bổn cũng chỉ dừng lại là người “giữ hồn xứ sở” chứ chưa phải như Nguyễn Đắc Xuân ở Huế hoặc nhà “Quảng Nam học” Nguyễn Văn Xuân hay nhà “Quảng Bình học” Nguyễn Tú…Nói vậy chứ không phải miền đất nào cũng có người như các "vị" trên, họ đã mang tinh huyết trí lực của mình để gìn giữ cho quê hương những hồn thiêng sông núi, khí thiêng con người trong từng trang viết.
Nay là những ngày cuối năm, như chợt tỉnh nhớ ra điều gì, tôi lang thang qua Cù Lao Phố để tìm hiểu những điều còn nhắc nhở trong những câu chuyện kể lịch sử của vùng đất. Ngày nay, Cù lao Phố vẫn còn đó, nhưng tháng năm đã phủ bụi trần ai, những khoảnh khắc lịch sử “một thời cha ông đi mở cõi” đã mai một đi rất nhiều.
Đến thăm rồi biết đặt bút viết gì đây, về một nơi không chỉ có giá trị về mặt bảo tồn văn hóa mà còn là nơi lưu giữ nhiều yếu tố lịch sử. Vả lại viết gì trước thực trạng nhiều "nét xưa" của Cù Lao Phố không được trùng tu. Bởi rồi một thời gian không xa, nhiều di tích đình nơi đây sẽ biến dạng và mất dần....... Thôi, viết để kẻo quên những địa linh nhân kiệt, những di tích cổ xưa đã phủ dày lớp bụi thời gian. Điều ấy với tôi như là điều cần thiết trong nhịp sống gấp gáp xô bồ của ngày tháng hôm nay.
CÙ LAO PHỐ - Ngược dòng thời gian.
Cù Lao Phố còn gọi là Đông Phố. Đó là một “thẻo đất” có hình dạng chiếc chuông treo nghiêng, được bao bọc bởi sông Rạch Cát và sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Biên Hòa (Tòa nhà UBND Tỉnh Đồng Nai) chưa đầy 1 km. Với nhà tôi cũng vậy, Cù Lao Phố nằm bên kia sông Đồng Nai, nên đây với tôi không phải là địa danh quá lạ lẫm, nhưng sẽ lại mới mẻ cho mọi người mỗi lần nghe tên hay đặt chân đến nơi này.
Cù Lao Phố có sông sâu, nước chảy, có đồng ruộng tươi tốt, trù phú, cây trái quanh năm. Từ Cù Lao Phố có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và xuống phía Nam để có thể ra biển Cần Giờ hay sang tận Camphuchia. Cù Lao Phố trước kia còn có khu phố cổ. Dấu tích xưa của vùng đất này đã có trong thư tịch cổ, đặc biệt là sách “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức có mô tả quang cảnh Cù lao Phố xưa rất rõ: “... phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng liền lạc tới 5 dặm, chia vạch ra ba đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng; ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu neo, có những xà lan liên tiếp nhau. Ấy là một chỗ đại đô hội, nhà buôn to lớn ở đây là nhiều hơn”.
Cù lao Phố chỉ rộng khoảng 694 ha, nhưng nơi đây được xem là nơi lưu giữ các công trình tín ngưỡng, thờ tự dày đặc với 11 ngôi đình, 7 ngôi chùa và 1 thánh thất Cao Đài. Tuy những dấu tích cũ ấy vẫn đang còn nằm lẩn khuất giữa vườn tược xóm thôn, nhưng cũng đủ để tôi hình dung một thời những gì vùng đất này đã có một khí thiêng riêng, anh linh riêng, phong hóa riêng, tất cả đều hòa nguyện. Những di tích ở đây không nguy nga như lăng tẩm, diện các của vua chúa, nhưng mọi người vẫn thấy được chút hơi hám của người xưa.....
Theo lịch sử ghi, người có công lớn trong công cuộc khai phá vùng đất Cù lao Phố là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720), ông nguyên là tổng binh ba châu Cao- Lôi- Liêm dưới triều Minh, vì không chịu làm tôi cho nhà Thanh nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa Nguyễn Phúc Tần. Vào năm 1679 nhóm người Hoa khoảng 3.000 người từ Quảng Đông do ông và Dương Ngạn Địch cầm đầu đi trên 50 chiếc “ghe bầu cưỡi đầu ngọn sóng”, xuôi theo dòng nam tiến tìm chốn mưu sinh và được Chúa Nguyễn chấp thuận. Ban đầu nhóm người này đặt chân đến Bàn Lân (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp, còn Cù Lao Phố là rừng rú, hoang vu, chỉ có một vài dân tộc bản địa sinh sống. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra bãi bồi cù lao này rất thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, nên một phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Lúc bấy giờ, với truyền thống của người Hoa là thương mại, bản tính cần mẫn, kiên trì, họ đã từng bước gây dựng Cù lao Phố thành thương cảng sầm uất của miền Nam. Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như: dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường. Các nghề này đã để lại dấu tích một thời qua các địa danh: chợ Chiếu, xóm Củi, xóm Lò Đúc, rạch Lò gốm.... Đó là những tên đất, tên làng đều gợi nhiều tò mò thắc thỏm của biết bao người phương xa đến muốn hiểu cội nguồn gốc rễ.
Theo lịch sử ghi, người có công lớn trong công cuộc khai phá vùng đất Cù lao Phố là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720), ông nguyên là tổng binh ba châu Cao- Lôi- Liêm dưới triều Minh, vì không chịu làm tôi cho nhà Thanh nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa Nguyễn Phúc Tần. Vào năm 1679 nhóm người Hoa khoảng 3.000 người từ Quảng Đông do ông và Dương Ngạn Địch cầm đầu đi trên 50 chiếc “ghe bầu cưỡi đầu ngọn sóng”, xuôi theo dòng nam tiến tìm chốn mưu sinh và được Chúa Nguyễn chấp thuận. Ban đầu nhóm người này đặt chân đến Bàn Lân (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp, còn Cù Lao Phố là rừng rú, hoang vu, chỉ có một vài dân tộc bản địa sinh sống. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra bãi bồi cù lao này rất thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, nên một phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Lúc bấy giờ, với truyền thống của người Hoa là thương mại, bản tính cần mẫn, kiên trì, họ đã từng bước gây dựng Cù lao Phố thành thương cảng sầm uất của miền Nam. Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như: dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường.
Cho đến thế kỷ 18, Cù lao Phố vẫn còn biết đến như một thương phố bậc nhất, thu hút nhiều thương nhân nước ngoài tới buôn bán. Phố thị sầm uất, lầu cao quán rộng, đường sá rộng rãi... không thua kém Hội An. Nhưng tiếc thay cho thế hệ hậu sinh sau này. Từ năm 1776 đến 1782 sau 4 lần quân Tây Sơn giao tranh với Chúa Nguyễn ở núi Châu Thới, Nông Nại Đại Phố chìm ngập trong khói lửa, hoang tàn. Số người Hoa ở đây lần lượt kéo đến vùng Chợ Lớn làm ăn, đón nguồn nông sản dồi dào của vùng Đồng bằng sông Cửu Long để buôn bán. Từ đây thương cảng Sài Gòn được lập nên thay cho Thương cảng Nông Nại lụi tàn.
Lịch sử đi qua, những triều đại đi qua, nhưng những giá trị từng chứa đựng ở vùng đất này thì bất diệt. Đất của người xưa và những di tích còn lại là những giá trị tuyệt vời của dân tộc, của một vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Khi tôi viết những dòng này cũng là lúc người dân Cù Lao Phố sau 38 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn giải phóng mới có được niềm vui. Đó là chính quyền tỉnh Đồng Nai vừa mới xây xong 2 chiếc cầu trên sông Rạch Cát và sông Đồng Nai để nối vùng đất mà từ lâu lắm rồi bị ngưng trệ trong cái thắt nút chai. Bởi từ trước đến nay, Cù Lao Phố muốn đi lại các nơi cũng chỉ bằng con đường độc đạo là chung với đường....xe lửa Bắc - Nam.
"Cầu xây xong đã ....có", nhưng khi đặt chân đến nơi đây, tôi thấy nhiều di tích tại Cù Lao Phố chưa được các cấp chính quyền quan tâm, phục hồi đúng mức “nếp cũ, tích xưa”. Có lẽ do chưa có quy chế bảo tồn (?) nên tôi thấy chỉ có một đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được tu bổ khang trang. Một già làng ở đây có nói với tôi rằng, hiện nay mọi sự chăm sóc kiến trúc và cảnh quan đình đang tùy thuộc vào sự quan tâm của người dân trong làng, nhưng vẫn có một số đình như Hòa Quới, Bình Quan... cảnh quan rất hoang tàn khủng khiếp.
Đồng Nai hiện nay có các địa danh, di tích cổ như Văn Miếu Trấn Biên, phần mộ Nguyễn Hữu Cảnh (nơi trước đây di quan Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh về chôn cất), phần mộ Trịnh Hoài Đức, Vườn bưởi nổi tiếng Tân Triều. Nhưng nếu việc xây dựng và tái hiện lại một không gian văn hóa truyền thống ở Cù lao Phố như tỉnh Đồng Nai đã từng xây dựng lại khu Văn Miếu Trấn Biên thì việc khai thác những nơi “hồn xưa chốn cũ” ở Cù lao Phố còn nhiều. Nều tôn tạo lại những ngôi đình, chùa thâm nghiêm ẩn mình trong lớp “bụi thời gian” sẽ là nét độc đáo để chúng ta có thể tìm hiểu về lịch sử vùng đất “một thời vang bóng”. Gần sát trung tâm thành phố Biên Hòa, nhưng Cù Lao Phố vẫn mang đậm nét quê Nam Bộ êm ả lạ thường. Và nơi đây còn thêm vấn đề về lịch sử nên rất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Nếu không xây dựng và phát triển thì mọi người chẳng biết các cấp chính quyền sẽ chọn nơi đâu!?.
Cuối năm, tôi đến Cù lao Phố mọi thứ vẫn chưa có gì nhộn nhịp. Dẫu vậy, tôi cũng đã được chìm đắm trong không gian hoài niệm thuở cha ông ta đi mở cõi. Làn gió mát từ sông Đồng Nai cứ nhẹ nhàng, man mác thổi vào vùng đất vốn bình dị của một thương phố ngày xưa. Biên Hòa - Đồng Nai, đây đâu có phải "khi ta ở chỉ là nơi đất ở", con người ai cũng yêu nơi sống của mình bằng một cách riêng. Tôi trăn trở với chính mình dù biết những điều viết ra không thể nào nói hết, như những vòng xoay nghiệt ngã của con tạo cuốn trôi và năm tháng đã phủ dày bụi trần lên gần như tất cả......
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP TẠI ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH - CÙ LAO PHỐ.
"Cầu xây xong đã ....có", nhưng khi đặt chân đến nơi đây, tôi thấy nhiều di tích tại Cù Lao Phố chưa được các cấp chính quyền quan tâm, phục hồi đúng mức “nếp cũ, tích xưa”. Có lẽ do chưa có quy chế bảo tồn (?) nên tôi thấy chỉ có một đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được tu bổ khang trang. Một già làng ở đây có nói với tôi rằng, hiện nay mọi sự chăm sóc kiến trúc và cảnh quan đình đang tùy thuộc vào sự quan tâm của người dân trong làng, nhưng vẫn có một số đình như Hòa Quới, Bình Quan... cảnh quan rất hoang tàn khủng khiếp.
Đồng Nai hiện nay có các địa danh, di tích cổ như Văn Miếu Trấn Biên, phần mộ Nguyễn Hữu Cảnh (nơi trước đây di quan Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh về chôn cất), phần mộ Trịnh Hoài Đức, Vườn bưởi nổi tiếng Tân Triều. Nhưng nếu việc xây dựng và tái hiện lại một không gian văn hóa truyền thống ở Cù lao Phố như tỉnh Đồng Nai đã từng xây dựng lại khu Văn Miếu Trấn Biên thì việc khai thác những nơi “hồn xưa chốn cũ” ở Cù lao Phố còn nhiều. Nều tôn tạo lại những ngôi đình, chùa thâm nghiêm ẩn mình trong lớp “bụi thời gian” sẽ là nét độc đáo để chúng ta có thể tìm hiểu về lịch sử vùng đất “một thời vang bóng”. Gần sát trung tâm thành phố Biên Hòa, nhưng Cù Lao Phố vẫn mang đậm nét quê Nam Bộ êm ả lạ thường. Và nơi đây còn thêm vấn đề về lịch sử nên rất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Nếu không xây dựng và phát triển thì mọi người chẳng biết các cấp chính quyền sẽ chọn nơi đâu!?.
Cuối năm, tôi đến Cù lao Phố mọi thứ vẫn chưa có gì nhộn nhịp. Dẫu vậy, tôi cũng đã được chìm đắm trong không gian hoài niệm thuở cha ông ta đi mở cõi. Làn gió mát từ sông Đồng Nai cứ nhẹ nhàng, man mác thổi vào vùng đất vốn bình dị của một thương phố ngày xưa. Biên Hòa - Đồng Nai, đây đâu có phải "khi ta ở chỉ là nơi đất ở", con người ai cũng yêu nơi sống của mình bằng một cách riêng. Tôi trăn trở với chính mình dù biết những điều viết ra không thể nào nói hết, như những vòng xoay nghiệt ngã của con tạo cuốn trôi và năm tháng đã phủ dày bụi trần lên gần như tất cả......
Viết cuối năm 2013
Andi Nguyễn Ánh NhậtMỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP TẠI ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH - CÙ LAO PHỐ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét